Đền Mẫu

Đền Mẫu thờ các vị quốc mẫu và công chúa đầu triều Trần. Đền được xây dựng năm 2011 trên thửa đất DTH3, diện tích 6.228 m2, Đền Mẫu nằm ở phía bên hữu của đền Vua và cùng quay mặt về hướng Nam như đền Vua, đền Thánh và cũng bị ngăn cách với sân lễ hội bằng con đường nhựa chạy dọc làng Tam Đường.

Từ ngoài nhìn vào đền mẫu có những công trình kiến trúc như sau : Giếng ngọc, bình phong, sân tế, giải vũ, tiền tế, trung tế và hậu cung.

* Giếng ngọc

Giếng Ngọc đều mẫu được xây hình bán nguyệt, bờ thẳng giáp về phía đền, bờ cong quay ra phía ngoài đường, cạnh bờ cong xây 04 trụ biểu có hình dáng, kích thước giống hệt 04 trụ biểu bên đền Thánh. Thành giếng Ngọc kè đá, bờ bổ trụ, xây bao loan.

* Cổng đền.

Cổng được xây ở phía trước cửa đền mẫu, gồm hai cổng ra vào, xây kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, mái cong đao guột; khẩu độ cổng rộng 1.8 mét, cao 1.9 mét, giữa hai cổng có một bức bình phong được tạo hình thành một cuốn thư rộng 2.8 mét, cao 1.8 mét.

* Sân tế, giải vũ

Sân tế có kích thước 11.5 x 22 mét được lát gạch vuông màu đỏ, phía giáp tòa Tiền tế đặt một chiếc sập và một bát hương đá, ở phía bên Đông và bên Tây của sân xây hai tòa giải vũ, mỗi tòa 05 gian, xây kiểu mái chảy, hồi đắp đấu, phía trước không xây tường, hai gian hồi thưng gỗ, phần giữa đặt cửa sổ, lắp song con tiện; Ba gian giữa để trống, không lắp cánh cửa, cũng không có khung, bạo, ngưỡng cửa. Bộ khung chịu lực của hai tòa giải vũ chỉ có hai hàng chân cột, phía trên có 04 bộ vì kiểu vì trụ báng quá giang rất đơn giản.

* Tiền tế

Tiền tế đền Mẫu gồm 05 gian, xây kiểu mái cong đao guột, nóc đắp ngạc long ngậm đại bờ, chính giữa đắp mặt nhật.

Hiên tòa Tiền tế cao hơn nền sân khoảng 0.6 mét. Từ sân bước lên hiên phải qua ba bậc tam cấp ghép bằng đá tảng; bậc tam cấp kéo dài suốt ba gian giữa của tòa Tiền tế. Phía trước tòa Tiền tế không xây tường, ba gian giữa lắp ba bộ cánh cửa gỗ, kiểu cửa 4 cánh, thượng song hạ bản, hai gian hồi thưng gỗ, giữa để cửa sổ lắp song con tiện, hồi hai bên và phía sau xây gạch. Bộ khung chịu lực tòa Tiền tế gồm 04 hàng chân cột gồm 02 hàng 12 cột cái, 02 hàng 12 cột quân, phía trên có 04 bộ vì làm kiểu giá chiêng, hoa văn lá lật được chạm khắc trên các thanh ngang và đầu rồng được chạm khắc trên các đầu dư.

Trong tòa Tiền tế, gian chính giữa treo một bộ cửa võng chạm trổ hoa cúc dây, phía dưới đặt một nhang án, trên nhang án có một cỗ long đình, trong long đình có ngai thờ, phía trước có bát hương và một bộ tam sự đồng phục vụ cho việc thờ cúng công đồng, phía trước nhang án có 02 quán tẩy và 02 bàn nhỏ trên bày đẳng tế và đài rượu. Các gian bên cạnh đặt 04 chiếc kiệu lớn phục vụ việc tổ chức rước nước trong lễ hội tháng giêng.

 

* Tòa Trung tế

Tòa Trung tế nằm cách tòa Tiền tế một khoảng sân rộng 7.5 mét, dài 16.5 mét; trên sân phía trước cửa tòa Trung tế đặt một đỉnh lớn làm bằng đá.

Tòa này có 05 gian xây kiểu mái chảy hồi đắp đấu, bờ nóc đắp ngạc long ngậm đại bờ, hai góc hiên xây hai trụ biểu trên đắp lồng đèn, phượng dành. Nền tòa Trung tế cao hơn nền sân khoảng 0,6 mét, từ sân bước lên hiên đền phải qua ba bậc tam cấp chạy dài suốt ba gian giữa, được ghép bằng những đá tảng vuông vức. Hiên tòa Trung tế rộng 2.3 mét được lát gạch vuông màu đỏ. Phía trước tòa Trung tế không xây tường, ba gian giữa lắp ba bộ cánh cửa gỗ, kiểu cửa 4 cánh, thượng song hạ bản, hai gian hồi thưng gỗ, giữa đặt cửa sổ lắp song con tiện.

Bộ khung kiến trúc tòa Trung tế có 05 hàng chân cột gồm 02 hàng 12 cột cái, 02 hàng 14 cột quân và 01 hàng 06 cột hiên, phía trên có 06 bộ vì được làm theo kiểu giá chiêng, chạm khắc hoa văn lá lật, các đầu dư chạm rồng.

Trang trí trong tòa Trung tế.

Trong tòa Trung tế gian chính giữa treo một bức ô sa được chạm khắc cầu kỳ, sơn thếp lộng lẫy, riềm phía trên chạm phượng vũ, riềm hai bên chạm rồng, lòng bức ô sa chia thành nhiều ô nhỏ chạm tứ quý và dây lá, ô trang trọng nhất sơn màu đen, chạm nổi 4 chữ Hán “Trần triều quốc mẫu”, hai gian hồi treo hai bức hoành phi, phần khung chia ô chạm hoa dây và hoa văn trám lồng, phủ màu vàng, lòng hoành phi sơn đen, các chữ Hán chạm nổi sơn màu vàng giống màu khung. Trên cột cái gian giữa và các cột quân hậu treo 05 câu đối, được làm theo kiểu lòng máng, hoa văn trên thành sơn màu vàng, nền sơn đen, chữ chạm nổi sơn màu vàng. Màu sơn trên các bức hoành và câu đối đều có chung một tông màu, một kiểu chạm trổ hoa văn, tạo thành một tổng thể hài hòa, trang nhã và vô cùng đẹp mắt.

Bài trí tại tòa Trung tế.

Gian trung tâm tòa Trung tế đặt một ban thờ lớn, phía trong đặt một bộ khám đại, trong khám có tượng Thuận Thiên hoàng hậu[1], Thiên Cảm hoàng hậu[2], Bảo Thánh hoàng hậu[3]. Nhang án phía ngoài đặt một bát hương gốm, một bộ ngũ sự đồng cùng nhiều đồ vật phục vụ cho việc thờ cúng.

Gian hồi bên tả đặt một ban thờ, trên bàn thờ phía trước đặt một bát hương gốm, một bộ ngũ sự đồng, phía sau đặt song song hai cỗ ngai trong có hai bài vị thờ Thiên Thành công chúa[4] và Huyền Trân công chúa[5].

Gian hồi bên hữu đặt một bàn thờ, trên bàn thờ phía trước đặt một bát hương gốm, một bộ ngũ sự đồng, phía sau đặt song song hai cỗ khám trong có hai bài vị thờ An Tư công chúa[6] và Phụng Dương công chúa[7].

* Tòa Hậu cung

Hậu cung đền mẫu gồm ba gian, ăn thẳng với gian trung tâm tòa Trung tế tạo thành kiến trúc chữ đinh. Ngoại thất xây kiểu mái chảy, hồi đắp đấu; bộ khung chịu lực có 04 hàng chân cột, gồm 02 hàng 06 cột cái, 02 hàng 08 cột quân, phía trên có 04 bộ vì đều làm theo kiểu vì giá chiêng, chạm khắc lá lật, đầu dư chạm rồng, giống như ở tòa Trung tế.

Hậu cung được ngăn cách với tòa Trung tế bằng ba bộ cửa có ngưỡng, bạo và cánh cửa đều làm bằng gỗ. Cả ba bộ đều lắp cánh cửa khay, chân quay kiểu cửa thượng song hạ bản. Bộ cửa gian giữa có bốn cánh, lúc nào cũng đóng kín cài then. Bộ cánh cửa gian hai gian cạnh chỉ có hai cánh, việc ra vào hương đăng chỉ được thực hiện ở hai cửa nhỏ này.

Trang trí trong hậu cung.

Phía trên bộ cánh cửa ngăn cách giữa tòa Trung tế và tòa Hậu cung treo một bức cuốn thư lòng cuốn thư có 4 chữ Hán “Quốc sắc thiên hương”, Hai cột bên dưới cuốn thư treo một đôi câu đối. Cuốn thư và câu đối đều có diềm chạm khắc cầu kỳ, sơn màu vàng, nền sơn đen, chữ chạm nổi sơn màu vàng cùng tông với màu sơn ở diềm.

Trong hậu cung treo ba bộ cửa võng, trán và thành cửa võng được chạm thành những cành cúc dây với những bông cúc đại đóa nở rộ bên cạnh có những con phượng ở trong các tư thế đứng hoặc múa; các cửa võng đều được thếp vàng rực rỡ. Tại gian trung tâm, phía trên cửa võng còn treo một bức hoành phi trên chạm nổi 4 chữ Hán “Đức hợp địa linh”.

Tòa Hậu cung thờ Hoàng thái hậu Lê Thị[8], Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung[9] và Chiêu Thánh Hoàng Hậu[10]. Trên ban thờ các vị quốc mẫu trên được đặt tại gian trung tâm của Hậu cung; trên bàn thờ đặt một khám lớn, chính giữa đặt tượng Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung, phía bên tay phải Linh Từ đặt tượng Hoàng thái hậu Lê Thị, tượng Chiêu Thánh hoàng hậu được ở phía bên tay phải của Linh từ Quốc mẫu.

Việc thờ Chiêu Thánh hoàng hậu trong hậu cung đền Mẫu là một việc làm rất hợp với lòng dân. Vì Chiêu Thánh là bà hoàng cuối cùng của triều Lý, bà đã nhường ngôi cho chồng để mở ra triều đại nhà Trần – một triều đại với võ công hiển hách đã ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, đây là cuộc giao quyền lực chính trị duy nhất không hao tốn xương máu của nhân dân, công đó, ơn đó trước hết thuộc về Lý Chiêu Hoàng.

Năm 1258, khi chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ nhất, vào ngày mùng 1 tết, vua Trần Thái Tông ngự chính điện, cho trăm quan vào chầu, trong thời khắc linh thiêng chuyển giao của đất trời, vua Trần Thái Tông đã làm một việc mà lịch sử sẽ mãi mãi còn bàn, đó là đi tìm hạnh phúc cho vợ cũ của mình – đem công chúa Chiêu Thánh gả cho Ngự sử đại phu Lê Phụ Trần. Và câu vua Trần Thái Tông nói với Lý Chiêu Hoàng “Trẫm không có khanh thì làm gì có được ngày nay. Khanh nên cố gắng để cùng hưởng phúc sau này” trong buổi thiết triều đặc biệt ấy quả là chất chứa tâm can, lắng đọng ân tình, khẳng định tình cảm của Thái Tông dành cho Chiêu Hoàng và vai trò của Lý chiêu Hoàng trong việc mở nghiệp nhà Trần.


[1] Thuận Thiên hoàng hậu là Thái trưởng công chúa của vua Lý Huệ tông, hoàng hậu thứ hai của vua Trần Thái Tông (Hoàng hậu thứ nhất là Lý Chiêu Hoàng – Chiêu Thánh hoàng hậu), mẹ đẻ của vua Trần Thánh Tông

[2] Thiên Cảm hoàng hậu là hoàng hậu của vua Trần Thánh Tông, mẹ vua Trần Nhân Tông

[3] Bảo Thánh hoàng hậu là con gái của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa, Bà là hoàng hậu của vua Trần Nhân Tông, mẹ đẻ của vua Trần Anh Tông

[4] Thiên Thành công chúa là Thái trưởng công chúa của vua Trần Thái Tông – phu nhân của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, bà cũng chính là Nguyên Từ Quốc Mẫu phu nhân được thờ trong hậu cung đền Thánh

 

[5] Huyền Trân công chúa là con gái vua Trần Nhân Tông, được gả cho vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy hai châu là Châu Ô và Châu Lý. Khi vua Chế Mân chết, theo phong tục bà phải chết theo vua, được vua Trần cho Trần Khắc Chung tìm kế cứu. Về nước bà đi tu và được thờ ở nhiều nơi

[6] An Tư công chúa là con gái của vua Trần Thái Tông, em gái út của vua Trần Thánh Tông. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 2 An Tư công chúa đã được vua Trần Thánh Tông gả cho Thoát Hoan vờ cầu hòa để có thời gian chuẩn bị lực lượng đánh bại quân xâm lược Nguyên Mông năm 1285.

[7] Phụng Dương công chúa là nghĩa nữ của vua Trần Thái Tông, phu nhân của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải.

[8] Hoàng thái hậu Lê Thị, tên thật là Lê Thị Thái, bà là vợ của Thượng hoàng Trần Thừa, mẹ đẻ của vua Trần Thái Tông + Trần Liễu + Trần Nhật Hiệu

[9] Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, mẹ đẻ của vua Lý Chiêu Thánh và Thuận Thiên Hoàng hậu. Năm 1226, bị giáng là Thiên cực công chúa gả cho Thái sư Trần Thủ Độ. Sau vì có nhiều công lao với nhà Trần được phong là Linh từ quốc mẫu

[10] Chiêu Thánh hoàng hậu chính là Lý Chiêu Hoàng công chúa của vua Lý Huệ Tông được phong làm vua đời thứ 9 của triều Lý. Năm 1225, nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh để mở nghiệp nhà Trần, được Trần Thái Tông phong là Chiêu Thánh hoàng hậu, sau vì không có con, bị phế cuối cùng được vua Trần Thái Tông đem gả cho Lê Phụ Trần.

Bài viết liên quan

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *