Như phần trên đã trình bày, từ thời Lý cụ Trần Hấp đã di dời mộ tổ nhà Trần từ hương Tức Mặc sang táng ở gò Mả Sao (hương Tinh Cương, Thái Đường thời Trần, nay là thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Các đời kế tiếp sau từ Trần Hấp, Trần Lý, đến Thái tổ Trần Thừa đều được an táng tại đây. Các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông cùng các hoàng hậu, công chúa đầu triều Trần sau khi mất đều được đưa về đây an táng. Từ đời vua Trần Anh Tông trở đi, các vua nhà Trần băng hà không được đưa về Long Hưng mà đưa về an táng ở An Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh) [1]

Đến thời Lê, khi Lê Quý Đôn viết “Kiến văn tiểu lục” cũng khẳng định: “Xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên có 4 cái lăng của Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông nhà Trần lại có lăng của 4 hoàng hậu …”
Thời Nguyễn, sách “Đồng Khánh ngự lãm dư địa chí lược” ghi cụ thể “Miếu thờ các vua Trần ở xã Thái Đường, hướng Nam, trước miếu có ba gò ấn kiếm, sau miếu có bảy gò thất tinh”
Những lần Thái Đường của nhà Trần bị tàn phá đã được lịch sử ghi lại: “Mậu Tý, năm thứ 4 (1288), tháng 3 ngày 17, đem các tướng giặc bị bắt… làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu lăng. Trước đó quân Nguyên đã đào Chiêu Lăng muốn phá đi nhưng không chạm tới quan tài; đến khi giặc thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn …”[2]
Sau giặc Nguyên đến giặc Chiêm Thành tàn phá Thái Đường. Đến thời giặc Minh xâm lược, chúng còn muốn xóa đi mọi dấu vết của nhà Trần nên đã tàn phá Thái Đường lăng, tên gọi phủ Long Hưng gắn với một thời huy hoàng của nhà Trần cũng bị đổi huyện Tân Hóa.
Đến thời Hậu Lê, khi quân Tây Sơn tiến quân ra Bắc đã tàn phá Thái Đường của nhà Trần. Sự kiện này được “Đại Nam nhất thống chí” chép như sau : “Mộ tổ nhà Trần ở Thái Đường, huyện Hưng Nhân, trước kia có bia nhưng từ sau khi Tây Sơn nổi lên thì bia này mất chỉ còn lại con rùa. Ở đây có miếu thờ 4 vị vua Trần: Thái tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông”.
Đến thời Nguyễn, “vào năm Thành Thái thứ 6 (1894), mộ tổ nhà Trần ở xã Thái Đường được công sứ Mi-no (Minaut) cấp tiền công cho tu sửa tường điện bằng gạch, hàng năm cấp tiền 60 quan chi vào việc đèn hương phụng thờ”[3]. Diện mạo của ba ngôi mộ vua Trần thời đó được mô tả như sau “Trước mộ có ba cột đá tròn, phía sau có khắc chữ vương (王); hai bên tả, hữu có kiếm thờ xếp thành hàng… công sứ Mi-no cấp tiền tu sửa. Nay bốn mặt tường hoa trông vào rất tôn nghiêm, trang nhã”[4].
Đến trước năm 1945, trên địa bàn Tam Đường vẫn còn đền thờ các vua Trần. Phía trước đền (phía Nam) có 3 ngôi mộ lớn là : Phần Trung, Phần Bụt, Phần Đa, chếch về phía Tây – ở vị trí cách đê sông Hồng gần 500 mét có một ngôi mộ cổ, nhân dân quen gọi là Phần Cựu. Phía Đông Bắc đền thờ có Mả Tít, Vườn màn, Bến Ngự và chùa Bến. Phía sau đền thờ (phía Bắc) có 7 ngôi mộ khác đối diện với Phần Trung, Phần Bụt, Phần Đa, tạo thành thế “ tiền tam thai hậu thất tinh”.
Khu thất tinh gồm các phần Ốc, Quang, Ổi, Lợn, Mao, Gà, và phần Bà già. Theo dân gian phần Ốc là nơi đặt mộ cụ Trần Hấp, phần Quang là lăng mộ của Nguyên tổ Trần Lý, tất cả các phần còn lại trong khu “thất tinh” là nơi chôn cất các hoàng hậu công chúa đầu triều Trần.
Phần Cựu và các phần trong khu “thất tinh” đều đã bị phá hủy hoàn toàn, đất đã cấp cho dân sinh sống, canh tác ổn định từ giữa thế kỷ XX.
Các báo cáo khai quật khảo cổ liên quan đến khu di tích Tam Đường hiện đang lưu tại Viện Khảo cổ học cho biết về những lần khai quật khảo cổ học ở Tam Đường và có thể tổng thuật lại như sau :
Tháng 3 năm 1979, Viện Khảo cổ học kết hợp với Bảo tàng tỉnh Thái Bình khai quật một phế tích kiến trúc rộng 300 m2, tại Cồn Nhãn nằm trong khu vực giữa đường làng và phần mộ các vua Trần (nay là sân lễ hội đền Trần). Tại đây đã tìm thấy rất nhiều gạch ngói vụn chồng xếp lớp, có chỗ chồng đống lên nhau, trong đó có ngói mũi hài, ngói bò và các vật liệu của một bộ mái nhà, đào sâu xuống dưới 40 cm tìm thấy nhiều dải gạch hoa đóng nghiêng xuống nền đất sét như nêm cối. Hiện vật tìm thấy trong hố khai quật gồm 296 tiêu bản hiện vật. Các nhà Khảo cổ đã kết luận: “Khu vực khai quật khảo cổ học nằm giữa khu “tiền tam thai, hậu thất tinh” nhà Trần. Nơi đây có hiện tượng đất mượn – người thời Trần chở đất từ nơi khác đến để đắp nền, sau đó mới xây dựng lên trên. Qua khai quật đã có những tư liệu cần thiết để dựng lại một mái nhà thời Trần…”[5]
Năm 1980, Viện Khảo cổ học lại kết hợp với Bảo tàng tỉnh Thái Bình, khai quật di tích Tam Đường lần thứ 2; với hai vị trí là phần Bia và mộ phần Cựu:
Vị trí khai quật là Phần Bia là cạnh ao đình Ngọc Đường. Hiện vật tìm thấy trong lần khai quật này có số lượng khoảng 290 hiện vật trong đó có những hiện vật độc đáo là đầu rồng bằng đất nung to nhỏ nhiều cỡ, ngói bò lớn có rồng đặt trên các bờ nóc. Các hiện vật này được đánh giá là có niên đại cuối thời Trần (giữa thế kỷ XV trở đi)[6]
“Mộ phần Cựu nằm ở trước đền thờ các vua Trần chếch về phía Tây Nam. Cách đê sông Hồng khoảng 500 mét. Mộ nằm dưới một gò đất cao, cấu trúc khá phức tạp. Trong mộ có hai lớp quan và quách được ghép bởi các thanh gỗ dày sơn màu đỏ. Khi khai quật những tấm ván thiên của quan và mặt trên của quách đều bị mất. Trong quan tài, góc Tây Nam chứa than tro rất mịnh, màu trắng xám. Lẫn trong tro than còn có nhiều đồng tiền bị rỉ nát, có đồng còn chữ “Khai nguyên thông bảo”. Cũng trong tro than tìm thấy một số cánh hoa và nhị hoa bằng kim loại màu vàng, một mẩu xương có vết cháy dở.
Bên ngoài quan tài, lẫn trong lớp than lót có hai quả chuông nhỏ bằng đồng để đối xứng trong lòng quách. Phía đuôi quan tài có 3 lọ sứ để sát nhau, kích thước cao 30 cm, đường kính miệng 10 cm, 3 lọ sứ không đựng gì bên trong.
Báo cáo khai quật Khảo cổ học đã kết luận đây là một ngôi mộ thời Trần, người chết được đốt xác ở một nơi khác rồi chuyển tro than về đây chôn, chủ nhân là người theo đạo Phật và ít ra cũng phải là người trong hoàng tộc nhà Trần”[7].
Trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Bảo tàng tỉnh Thái Bình cũng đã hai lần trở lại Tam Đường, tổ chức khai quật. Ở phía Bắc phần mộ các vua Trần đều tìm thấy những tiêu bản hiện vật bằng đất nung có niên đại thời Trần giống với hiện vật của các lần khai quật do Viện Khảo cổ học thực hiện trước đó. Ở phía Nam phần mộ các vua Trần dưới lớp đất canh tác chỉ tìm thấy tầng sinh thổ. Bảo tàng tỉnh Thái Bình đã kết luận: Như vậy Hành cung Long Hưng và tất cả các công trình phục vụ cho việc tế lễ ở tôn miếu của triều Trần đều đặt ở vị trí phía Bắc các ngôi mộ (phần sân lễ hội đền Trần hiện nay).
Qua kết quả các lần khai quật Khảo cổ học tại Tam Đường có thể kết luận:
– Tam Đường là vùng đất đặt tôn miếu, và lăng mộ các vua và hoàng hậu đầu triều Trần (chính sử đã ghi)
– Tam Đường là nơi đặt hành cung Long Hưng để các vua Trần ngự trong những lần về làm lễ bái yết tổ tiên.
– Mặc dù từ năm 1320 trở đi các vua và hoàng hậu nhà Trần sau khi mất không được đưa về Thái Đường ở Long Hưng chôn cất nữa. Và từ năm 1381, vua Trần Phế đế đã cho thần tượng của các vua Trần về thờ ở An Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh) nhưng khu lăng mộ nhà Trần ở Thái Đường vẫn được nhà Trần quan tâm một cách đặc biệt và cho tiếp tục cho xây dựng những công trình lớn như nhà Bia để giữ gìn khu “sơn lăng cấm địa”. Chứng tỏ trong tâm thức nhà Trần hương Tinh Cương – Thái Đường vẫn là đất phát tích, hưng nghiệp, nơi đặt tôn miếu của nhà Trần. Việc đưa các vua Trần đời sau về An Sinh là nơi có núi non hiểm trở chôn cất chỉ là việc bất đắc dĩ để tránh bị giặc Chiêm Thành tàn phá. Việc rước thần tượng từ các lăng ở Long Hưng về An Sinh chẳng qua cũng là chỉ hành động rước tổ tiên về hợp tế và đánh lừa kẻ thù, bảo vệ lăng mộ tôn miếu nếu không may đất nước bị họa xâm lăng.
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, nhà xuất bản thời đại năm 2013, trang 353, 355 chép “Canh Thân năm thứ 7 (1320) Thượng hoàng (Anh Tông) băng ở cung Trùng Quang… tháng 12 ngày 12 táng Thượng hoàng vào Thái lăng ở Yên Sinh, miếu hiệu là Anh Tôn, thụy là Hiển văn duệ võ khâm minh nhân hiếu Hoàng đế.
[2] Đại Việt sử ký toàn thư, nhà xuất bản thời đại năm 2013, trang 315
[3] Thái Bình địa dư ký, ký hiệu A.500 Viện nghiên cứu Hán Nôm, mục đền thiêng cổ tích.
[4] Thái Bình phong vật chí, ký hiệu A. 1236, mục tích cũ chuyện lạ.
[5] Báo cáo khai quật di tích Tam Đường của Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Mạnh Cường (viện Khảo cổ học), Nguyễn Đức Thạnh, Nguyễn Ngọc Phát (Bảo tàng tỉnh Thái Bình).
[6] Báo cáo khai quật di tích Tam Đường (Thái Bình) lần thứ hai của Nguyễn Mạnh Cường, Đặng Kim Ngọc (viện Khảo cổ học), Nguyễn Ngọc Phát (Bảo tàng tỉnh Thái Bình).
[7] Báo cáo khai quật di tích Tam Đường (Thái Bình) lần thứ hai của Nguyễn Mạnh Cường, Đặng Kim Ngọc (viện Khảo cổ học), Nguyễn Ngọc Phát (Bảo tàng tỉnh Thái Bình).